Lời nói đầu:
Văn => Nghệ thuật. Để mở đâu cho Topic nghệ thuật này. Tui xin mạn phép đưa ra một chủ đề mà lâu nay chúng ta vẫn coi là "thô lỗ". Lịu nó có "thô lỗ" thật sự??? Go on. NGHỆ THUẬT CHỬI.Cuộc sống phức tạp vốn nhiều quan hệ nên hay có va chạm, xung đột. Mà đã có xung đột
thì cần giải quyết. Người ta có thể hòa giải bằng “đối thoại”, song cũng không
ít người sử dụng “đối đầu”. Mà đối đầu “hiền lành” nhất có lẽ là “đấu võ mồm”,
tức là chửi nhau.
Nói đến chửi, người Việt Nam nào cũng nghĩ ngay đó là hiện tượng vô văn hóa,
người ta liên tưởng tới những câu chửi tục, những lời chửi
“rỉa róc”,chửi
“như vặt thịt” người ta.
Việc chửi (nhau) thì dân tộc nào
cũng có, thậm chí có từ rất lâu đời.
Lối chửi phổ biến ở mọi dân tộc, mà người Việt cũng biết, là sử dụng các từ ngữ
chỉ
bộphận sinh dục, bài tiết, quan hệ tình dục… mà “ném” vào mặt đối phương.
Họ gán cho đối phương là "họ hàng" của các loài vật mà theo họ
có những đặc tính xấu, bị xã hội chỉ trích:
chó, bò, lợn (heo), rắn rết, giòi bọ, dê (xồm)…Một số người mát tính hơn, họ chỉ hạ thấp đối phương một cách
tương đối. Họ hạn chế ở mức độ ví đối phương với những thứ như: giả nhân, ngợm,
quỷ quái, yêu tinh… Họ nêu những khiếm khuyết hoặc gán ghép cho đối phương
những khiếm khuyết vật chất, tinh thần, xã hội, ví dụ: (đồ, con, quân, lũ, bọn)
què, mù…; ngu, ngốc, điên, khùng…; đểu cáng, ác độc, vô luân, bất hiếu…; lừa
đảo, ăn cắp…. Các cách chửi này phổ biến nhưng không phải là tiêu biểu cho
người Việt.
Với bản chất của một dân tộc có nếp sống cộng đồng tình cảm, ưa tế nhị, truyền
thống chửi của Việt Nam là chửi có bài bản, có văn vẻ, có vần điệu và đặc biệt
là có thể kéo dài tùy ý. Chúng tôi nhớ có một bài thơ châm biếm ra đời vào khoảng
năm 1974 mở đầu bằng mấy câu như sau:
Chỉ vì mất một con gà,Rêu rao bà chửi suốt ba ngày liền.Chỉ sang tứ phiá láng giềng,Réo từ nội ngoại tổ tiên mười đời…Chỉ bốn câu này cũng đã đủ cho ta thấy phần nào
lối chửi thâm thúy của
người Việt!
Phụ nữ Việt Nam vốn rất
hiền lành, nết na, nhưng cũng không chịu để ai bắt nạt (ăn hiếp). Mất một con
gà không phải là chuyện lớn, nhưng nếu cứ tiếp tục mất như thế thì không thể
chấp nhận được. Bởi vậy mà phải ra tay “dằn mặt” để cho kẻ có tính xấu kia từ
nay đừng có động đến gia đình “bà”. Với một dân tộc luôn coi trọng uy tín và
danh dự hơn hết thảy mọi cái ở đời thì cách tốt nhất là phải làm cho đối phương
mất mặt trước cộng đồng. Thông thường, người ta
tức lúc nào thì chửi lúc đó.
Người Việt Nam truyền thống
thì không như vậy, họ chờ khi có thật đông người thì mới chửi và khi chửi lại
cố tình
đệm thêm
“ớilàng trên xóm dưới” hoặc
“ới trời cao đất dày” như
mời gọi thêm mọi người trong cả cộng đồngđến nghe.
Trong lối chửi của người Việt, cái hấp dẫn người nghe không phải là những lời
tục tĩu, mà là những lời xưng hô không theo lẽ thông thường. Bình thường người
ta “xưng khiêm hô tôn”, còn khi chửi thì người ta cố tình làm ngược lại:
“Chabố tiên nhân thằng Cò! Cha bố tiên nhân thằng Cốc! Cha họ nội họ ngoại, họ gầnhọ xa, họ năm đời giở lên, họ ba đời giở xuống nhà thằng Cò, thằng Cốc! Cha tamđại, tứ đại, ngũ đại mai thần chủ thằng Cò, thằng Cốc! Cha đứa già đứa trẻ, đứanhớn đứa bé, đứa mẹ đứa con, đứa đỏ như son, đứa vàng như nghệ nhà thằng Cò,thằng Cốc, bảo nhau định vỗ nợ của bà!” (Trích truyện
Khao của Đồ Phồn).
Trong đoạn trên, không có từ ngữ tục tĩu nào mà ta vẫn nhận ngay ra đây là lời
chửi. Người chửi đã tự tôn mình lên mức ngang hàng với cha của “bố tiên nhân”
dòng họ nhà đối phương. Người Việt vốn rất kính trọng ông bà tổ tiên (thể hiện
qua tục thờ cúng tổ tiên), nên không thể nào chịu được khi bị chửi “
tên cái” (tên của bố mẹ, ông bà… hoặc cáctừ thay thế kiểu như tam đại, tứ đại…). Có thể nói, đây là một nguyên nhân
dẫn đến thói quen giấu tên của người Việt.
Cái hay của các bài chửi kiểu này còn ở chỗ các ý được liên kết với nhau một
cách
hợp lý, lặp kèm với đối, đi với
nhau chan chát
: họ nội họ ngoại, họ gần họ xa, họ năm đời giở lên, họ ba đời giởxuống; đứa già đứa trẻ, đứa nhớn đứa bé, đứa mẹ đứa con, đứa đỏ như son, đứavàng như nghệ.Và đây nữa là lời chửi của một người đàn bà mất gà được ghi lại trong tiểu
thuyết
Bước đường cùng của Nguyễn
Công Hoan:
“Làngtrên xóm dưới, bên sau bên trước, bên ngược bên xuôi! Tôi có con gà mái xám nósắp ghẹ ổ, nó lạc ban sáng, mà thằng nào con nào, đứa ở gần mà qua, đứa ở xa màlại, nó dang tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha thả bỏnó ra, không thì tôi chửi cho đơới!Chémcha đứa nào bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy còn, sáng hôm naycon bà gọi nó nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở vớichồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà. Nhược bằng màychấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai quật bật săngthằng ngũ đại lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà, nó về nhà mày, nóbiến thành cú thành cáo, thành thần nanh đỏ mỏ; nó mổ chồng mổ con, mổ cả nhàmày cho mà xem!Ới cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày mà giết gà nhà bà thì mộtngười ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba. Mày xuống âm phủthì quỷ sứ thần linh nó rút ruột ra…”Ở đây người chửi vẫn dùng
nghệ thuật lặpvà đối là chủ yếu:
Làng trên xóm dưới, bên sau bên trước, bênngược bên xuôi; đứa ở gần mà qua, đứa ở xa mà lại, nó dang tay mặt, nó đặt taytrái; nó ở nhà bà - nó về nhà mày … tất cả tạo nên một
nhịp điệu như những bài thơ văn xuôi
đầy cảm hứng sáng tạo và luôn được người chửi thay đổi, biến báo tùy theo đối
tượng nghe.
Tuy rủa xả như vậy, nhưng đối phương vẫn không chửi lại hoặc dùng “võ tay chân”
với người chửi, bởi vì toàn bộ bài chửi chỉ là những lời cạnh khóe, bóng gió,
chả ai dại gì mà ra mặt. Mặt khác, việc chửi tuy không nêu đích danh nhưng nhờ
một số chi tiết ám chỉ nên ai cũng hiểu người chửi muốn ám chỉ ai, nhờ vậy mà
vẫn đạt được mục đích là làm cho đối phương mất mặt trước cộng đồng và hả cơn
giận trong lòng.
Với cách diễn đạt bóng gió, đầy tính ám chỉ về nội dung và có cấu trúc chặt
chẽ, vần điệu, nhịp nhàng về hình thức, lối chửi của người Việt Nam đã bước vào
hàng
“nghệ thuật”; nó có lẽ không
những không còn thuộc loại hiện tượng “vô văn hóa” nữa, mà đã trở thành một
hiện tượng độc đáo
góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Việt Nam cổtruyền. Tuy rằng ngày nay
‘nghệ thuậtchửi” này đang
mai một dần,
nhưng không phải ngẫu nhiên mà ở nơi này nơi khác nó đang được “sân khấu hóa”.
Nó là một bằng chứng độc đáo và hùng hồn rằng ngay cả trong lúc giận dữ, chửi
nhau, con người cũng có thể giận dữ, chửi nhau
“một cách có văn hóa”.